Trong các loại sản phẩm đồ đá thì nhiều nhất là các loại công cụ phục vụ cho
việc chặt đốn cây rừng, vỡ đất hoang như rìu, cuốc. Có nhiều loại cuốc, có lẽ đã
được sử dụng trong canh tác ruộng rẫy hoặc ruộng nương.
Trên cơ sơ hoạt động nông nghiệp phát triển nghề làm gốm được
triển khai mạnh nhằm đáp ứng yêu cầu bảo quản, cất trữ lương thực, nấu, đựng đồ
ăn, thức uống.Trong các di tích của cư dân nơi đây, có nhiều loại đồ gốm được
chế tác bằng bàn xoay từ đất sét có pha thêm cát mịn như: vò, nồi, bình, bát,
mâm bồng, đĩa quả, bếp có 3 chân kiềng…
Theo địa sử học vào thời bấy giờ, vùng đầm lầy Duyên Hải bao
gồm cả vùng châu thổ sông Cửu Long ngày nay. Vùng đầm lầy cùng với sông nước
sông Vàm Cỏ Đông là địa bàn thuận tiện cho việc phát triển nghề đánh bắt thủy
sản. Nhiều di cốt động vật, vỏ các loài nhuyễn thể, giáp xác được đánh bắt làm
thực phẩm thời ấy còn bảo tồn khá lớn trong di tích.
Cuộc sống của lớp dân cư đầu tiên
Theo xu hướng phát triển chung của các quốc gia Đông Nam Á thời
ấy, đại bộ phận cộng đồng dân cư trên vùng cao Tây Ninh- Vàm Cỏ Đông đã rời
ruộng rẫy đến châu thổ nhiều sông rạch cùng sinh sống, làm ăn với nhóm người
"ngoại nhập". Họ học nhiều nghề mới, tiếp nhận nhiều tri thức khoa học - kỹ
thuật và cả tôn giáo mới, tạo lập cuộc sống phù hợp với môi trường sông nước,
với thiết chế xã hội "đô thị” kiểu Ấn Độ xưa. Đồng bằng châu thổ sông Cửu Long
dần trở thành vùng đất trù phú, một chốn "đô hội” năng động, văn minh vào bậc
nhất Đông Nam Á thời đó (thế kỷ I -VII), một nhà nước lớn theo thể chế chính
trị, tôn giáo Ấn Độ đã hình thành có quyền lực chi phối cả vùng hạ lưu sông Cửu
Long - hải đảo Đông Nam Á được sử cũ Trung Hoa gọi là Phù Nam.
Những di tích của cư dân thời ấy ở châu thổ sông Cửu Long có
đến hàng chục nơi được khảo cổ học gọi chúng là di tích văn hóa Óc Eo (là một
hải cảng của đế đô Vương Quốc Phù Nam nằm ở ranh giới giữa hai tỉnh An Giang và
Kiên Giang).
Vùng đất cũ Tây Ninh – Vàm Cỏ một thời là trung tâm nông nghiệp
phát triển do sự di chuyển dân cư và chuyển dịch kinh tế đã nhanh chóng trở nên
hoang vắng kéo dài vài trăm năm. Phải đến thế kỷ VI - VII mới bắt đầu có sự hưng
khởi trở lại do có sự di chuyển dân cư từ châu thổ sông Cửu Long lên các vùng
đất cao để tránh thiên tai, địch họa và để vượt qua cuộc khủng hỏang kinh tế -
chính trị của Phù Nam. Những cộng đồng cư dân có gốc bản địa xa xưa lại trở về
“đất cũ” với hành trang truyền thống đã có nội dung mới tiến bộ hơn văn minh
hơn. Trong khoảng thế kỷ thứ VII -VIII trên đất cũ Tây Ninh, họ đã dựng lên hàng
trăm ngôi tháp bằng gạch mà đến nay chỉ còn lại hai địa điểm lưu tồn không toàn
vẹn cấu trúc tháp thờ xưa là Chót Mạt. Ngoài việc xây tháp, cư dân Tây Ninh thời
đó còn tạc nhiều tượng thần, vật thiêng bằng đá hoặc đúc bằng đồng để thờ.
Thời ấy “nơi nơi có đền tháp, chốn chốn có thần linh”, tôn giáo
Bà la môn phát triển "thịnh vượng". Tầng lớp tăng lữ, tu sĩ Ba la môn giữ vai
trò rường cột trong xã hội. Với lao động theo niềm tin vào thần linh cao cả, dân
chúng nô lệ lúc bấy giờ đã góp phần quan trọng nhất cho sự phát triển về kinh tế
- văn hóa của quốc gia Thủy Chân Lạp tồn tại trong khoảng thế kỷ VII -VIII sau
công nguyên.
Từ thế
kỷ thứ IX về sau, với sự hình thành vương quốc Ăngco - Campuchia trên vùng trung
lưu và biển hồ sông Mekong, vùng Nam Bộ biến thành vùng tranh giành ảnh hưởng
của các thế lực chính trị các vương quốc lớn bấy giờ (Ăngco - Chămpa - Java )
cộng đồng cư dân nơi vùng đất một thời phát triển phồn vinh về kinh tế, đặc sắc
và rực rỡ về văn hóa phải lưu tán đến vùng đất khác trong nội địa hoặc phải rời
đến những hải đảo xa xôi.
Địa bàn Tây Ninh cũng là "vùng đệm" giữa các quốc gia cổ đại
nên cư dân cũng phải lưu tán đến những vùng đất khác. Những di tích của những cư
dân tại chỗ vào thời này trên đất Tây Ninh cho đến nay rất hiếm thấy. Một đứt
đoạn thứ hai (đứt đoạn thứ nhất: sau thời đại đồ đá, dân cư Tây Ninh - Vàm Cỏ
tràn xuống đồng bằng sông Cửu Long) của văn hóa lịch sử diễn ra ở đây và kéo dài
nhiều thế kỷ cho đến khi xuất hiện các cộng đồng dân cư mới trên đất Tây Ninh
ngày nay.
Theo các nguồn sử liệu phương Tây thì từ đầu thế kỷ XVII, người
Việt đã đến định cư khai phá vùng Sài Gòn - Gia Định. Họ cùng với cư dân địa
phương - người Khơ me khai phá các khu vực chợ Quán, Tân Định, Bà Chiểu, Gò Vấp…
kéo dài đến Hóc Môn và dọc theo trục lộ đi về phía Tây Ninh. Thành phần chủ yếu
là nông dân và thợ thủ công nghèo khổ ở các tỉnh phía ngoài bị cùng chủ yếu là
nông dân và thợ thủ công nghèo khổ ở các tỉnh phía ngoài bị cùng cực, điêu đứng
vì tai họa chiến tranh, bị giai cấp phong kiến áp bức, bóc lột tàn bạo không thể
sống nổi, buộc phải rời bỏ làng xóm, quê hương đi một mình hoặc đem theo cả vợ
con cùng bè bạn, xóm giềng vào vùng đất mới xa xôi tìm con đường sống. Chính con
số đông đảo những người nông dân nghèo khổ phải xiêu tán đó là nguồn cung cấp
cho làn sóng di cư vào đất Ðồng Nai - Gia Định, nơi họ nghe nói có đất đai rộng
lớn phì nhiêu chưa được khai thác. Ngoài ra còn những người trốn binh dịch; tù
nhân bị lưu đày; lính đảo, giải ngũ; thầy lang; thầy đồ nghèo… kể cả một số
người vốn đã giàu có nhưng vẫn muốn tìm nơi đất mới để mở rộng làm ăn.
Cũng vào thế kỷ XVII có một số lớn người Hoa từ Quảng Đông,
Quảng Tây (Trung Quốc) đến vùng Ðồng Nai - Gia Định xin tị nạn và làm ăn sinh
sống. Năm 1679 có khoảng 3.000 người, năm 1680 có 200 người do Mạc Cửu đưa đến
vùng Hà Tiên.
Như vậy, cho đến những năm cuối thế kỷ XVII, cùng với người
Hoa, người Khơ me, lưu dân người Việt đã đến định cư khai phá vùng Sài Gòn - Bến
Nghé. Lúc này dân số tại đây đã lên tới 40.000 hộ với khoảng 200.000 người và
chúa Nguyễn đã cho lập ra ở đây hai huyện (Phước Long và Tân Bình) với 2 dinh
(Trấn Biên và Phiên Trấn) đều thuộc phủ Gia Định để tiến hành quản lý hành
chính. Đất Tây Ninh lúc ấy là đạo Quang Phong thuộc phủ Gia Định với dân số ước
khoảng 1.000 người.
Từ đây, công cuộc khai phá vùng đất Tây Ninh nói riêng và Nam
Bộ nói chung bước sang thời kỳ phát triển mới, mạnh mẽ hơn, toàn diện hơn.
trên đất Tây Ninh - Vàm Cỏ Đông có lịch sử
dài khoảng 2 thiên niên kỷ trước công nguyên, Trong khoảng thời gian ấy, mực
nước biển Đông hạ thấp liên tục, phù sa sông Mekong không ngừng lấn ra biển, dần
tạo nên châu thổ sông Cửu Long. Vào khoảng đầu công nguyên, châu thổ bắt đầu
định hình và mực nước biển cũng ổn định ở mặt bằng như ngày nay. Con đường giao
thương ven biển giữa Trung Quốc-Ấn Độ- Ba Tư bắt đầu mở rộng, trào lưu hội nhập
văn hóa, tộc người giữa phương Đông với phương Tây diễn ra ngày càng rộng
lớn.